“Hàn Thực” nghĩa là ăn đồ nguội, Tết này vào ngày mồng 3 tháng 3 (âm lịch), xuất phát từ tích truyện lịch sử Trung Quốc vào thời Xuân Thu Chiến Quốc. Hiện nay tết này phổ biến và đậm nét ở miền Bắc, nhất là quanh vùng Hà Nội.
Nguồn gốc của Tết Hàn thực
Theo nghĩa chữ Hán "Hàn" là lạnh, "thực " là ăn; " Tết Hàn thực" là tết
ăn đồ lạnh. Phong tục cổ truyền này có nguồn gốc từ Trung Quốc theo một
câu chuyện ly kỳ truyền tụng nhiều đời.
Chuyện kể rằng vào thời Xuân Thu (770-221) trước công nguyên, các nước
thôn tính lẫn nhau, thái tử Trùng Nhĩ nhà Tấn phải chạy lánh nạn khắp
nơi, hết chạy sang nước Địch lại trốn sang nước Vệ, nước Tề, nước Sở.
Theo hầu thái tử có người tôi trung thành tận tuỵ là Giới Tử Thôi. Trong
suốt 19 năm lận đận, gian nan, có lúc hết lương ăn, Giới Tử Thôi cắt
thịt đùi mình nấu cho chủ công ăn. Trùng Nhĩ ăn xong hỏi ra mới biết,
lòng cảm phục vô cùng.
Khi thành sự, Trùng Nhĩ phục quốc lên vua tức Tấn Văn Công. Tấn Văn Công
phong thưởng cho những người có công rất hậu nhưng lại quên mất Giới Tử
Thôi là người công đầu giúp mình trong khó khăn hoạn nạn.
Thấy mọi người được ân huệ, còn mình thì bị bỏ quên, Giới Tử Thôi không
oán giận gì, cho rằng đó là nghĩa vụ của bầy tôi rồi tủi phận về nhà dắt
mẹ vào núi Điền Sơn ở ẩn (còn có tài liệu viết núi Miên Sơn).
Hai mẹ con sống yên phận trong rừng, không mơ giàu sang phú quý. Mãi sau
Vua Tấn nhớ ra cho tìm Giới Tử Thôi nhưng không thấy. Vua cho người vào
Điền Sơn tìm không được, đoán biết Tử Thôi còn ở trong đó bèn sai đốt
rừng để buộc Tử Thôi phải ra.
Không ngờ Tử Thôi quyết chí, hai mẹ con cùng chịu chết cháy trong rừng.
Vua thương xót, cho lập miếu thờ trên núi và phong cả khu rừng đó làm tự
điền. Hôm Tử Thôi bị đốt cháy là ngày 5 tháng 3 âm lịch. Về sau người
ta lấy ngày 3 tháng 3 cho tiện.
Người quanh vùng thương xót Tử Thôi bậc trung thần, cứ mỗi năm đến ngày
ấy kiêng đốt lửa 3 ngày, ăn toàn đồ nguội, ngay cả cỗ cúng cũng làm từ
hôm trước.
Chính vì cúng và ăn đồ nguội nên gọi là tết Hàn thực.
Người Hoa có tục làm bánh trôi, bánh chay trong tết Hàn thực để tránh đốt lửa.
Tết Hàn thực của người Việt Nam
Do giao lưu văn hoá lâu đời với Trung Hoa nên người Việt ảnh hưởng tết
Hàn thực. Nhưng ở nước ta tết Hàn thực không phải để tưởng nhớ đến Tử
Thôi mà mang ý nghĩa dân tộc sâu sắc.
Ngày ấy các gia đình làm bánh trôi bánh chay cúng ông bà, tổ tiên và
không kiêng đốt lửa. Cũng trong dịp này nhiều nơi làm bánh trôi bánh
chay cúng thần hoàng.
Làng Hát Môn (PhúcThọ - Hà Tây) có lệ dâng bánh trôi lễ Hai Bà Trưng
ngày 6 tháng 3, theo một truyền thuyết linh dị: Khi Hai bà thua trận từ
Cấm khê chạy về Hát Môn là nơi phất cờ khởi nghĩa, Hai Bà bị thương ở cổ
còn ăn được bánh trôi của Bà hàng mời rồi theo lời chỉ dẫn của Bà hàng
(Bà hàng chính là Tiên hiện đón Hai Bà về Trời) để gieo mình xuống dòng
sông Hát tuẫn tiết.
Hoặc hơn nữa ngày giỗ Tổ Hùng Vương ngày 10 tháng 3 hàng năm lễ hội cũng
dâng cúng bánh trôi. Trong hội Phủ Giầy tháng 3 lễ Mẫu cũng thấy cúng
bánh trôi.
Như thế rõ ràng Tết Hàn thực của ta mang màu sắc dân tộc riêng, trường tồn trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Hai thứ bánh trôi và chay đều làm từ bột gạo nếp thơm. Bánh trôi nặn
viên nhỏ, ngoài trắng, trong nhân đường đỏ, thả luộc trong nồi nước sôi,
khi bánh nổi lên mặt nước vớt ra vừa chín tới vì thế bà Hồ Xuân Hương
viết :
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bẩy nổi ba chìm với nước non
Còn bánh chay thì nặn tròn dẹt, không nhân, đặt lên đĩa nhỏ, khi ăn đổ nước đường lên trên.
Ngày nay, cứ mỗi dịp tết Hàn thực về, người dân mọi vùng quê đều làm
bánh trôi, bánh chay. Còn ở thị thành, ngày xuân đi du ngoạn, khách cũng
được hưởng hương vị bánh trôi, bánh chay từ các quán hàng. Giữa thủ đô
Hà Nội, trong những phố cổ du khách có dịp được tận hưởng hương vị bánh
trôi bánh chay mà tưởng đến chuyện xưa nhiều điều thú vị.